Chiến tranh Kim–Nam Tống Chiến tranh Kim – Tống

Nhà Kim xâm lược nhà Tống, 1126–1130

Cuộc di tản về phương nam của triều đình nhà Tống

Tống Cao Tông lên ngôi

Xem thêm: Đại Sở

Các nhà lãnh đạo Kim không hề trông đợi hay mong muốn nhà Tống hoàn toàn sụp đổ. Ý định của họ chỉ là làm suy yếu nhà Tống để yêu cầu thêm nhiều cống nạp hơn, và họ cũng không có sự chuẩn bị cho tầm vóc chiến thắng của mình.[56] Người Nữ Chân hiện đang bận tâm tới việc củng cố quyền thống trị lên các khu vực từng do nhà Liêu kiểm soát. Thay vì tiếp tục xâm lược nhà Tống, một đế quốc có quân số đông đảo hơn, người Nữ Chân áp dụng chiến lược "dùng người Hán kiềm tỏa người Hán".[57] Nhà Kim hi vọng rằng một nhà nước ủy quyền có thể thay thế họ quản lý miền bắc Trung Quốc và thu hộ tiền bồi thường hàng năm mà không yêu cầu người Nữ Chân phải can thiệp để dập tắt các cuộc khởi nghĩa chống Kim.[56] Năm 1127, người Nữ Chân bổ nhiệm một cựu quan chức nhà Tống tên là Trương Bang Xương (1081–1127), làm vua bù nhìn của nước "Đại Sở" mới thành lập.[58] Chính quyền bù nhìn đã không thể ngăn cản được các hoạt động kháng chiến ở miền bắc Trung Quốc, người dân nổi dậy vì phẫn nộ khi bị người Nữ Chân cướp bóc hơn là vì sự trung thành với triều đình nhà Tống.[56] Một số chỉ huy nhà Tống, đóng quân tại các thị trấn rải rác khắp miền bắc Trung Quốc, vẫn trung thành với triều đình. Đồng thời, các nhóm nghĩa binh có vũ trang cũng tự hình thành nên các đội dân quân, phản đối sự hiện diện của người Nữ Chân. Chính những cuộc nổi dậy này đã cản trở nhà Kim kiểm soát khu vực miền bắc.[59]

Trong khi đó, một hoàng tử nhà Tống là Triệu Cấu đã trốn thoát thành công.[60] Triệu Cấu phải ở lại Từ Châu khi đang làm một nhiệm vụ ngoại giao, và không bao giờ quay trở về Khai Phong. Ông không có mặt ở kinh đô khi thành phố rơi vào tay người Nữ Chân.[61] Hoàng đế Tống Cao Tông tương lai đã cố gắng né tránh các lực lượng Nữ Chân đang bám theo mình bằng cách di chuyển từ tỉnh này sang tỉnh khác, đi khắp Hà Bắc, Hà NamSơn Đông. Người Nữ Chân từng dụ Triệu Cấu trở về Khai Phong để có thể dễ dàng bắt được ông, nhưng không thành công.[62] Đầu tháng 6 năm 1127, Triệu Cấu dừng chân tại Ứng Thiên Phủ (Thương Khâu ngày nay), kinh đô Nam Tống.[61] Với Cao Tông (cai trị 1127–1162), Ứng Thiên Phủ chỉ mới là kinh đô đầu tiên trong một chuỗi kinh đô, được gọi là hành tại.[lower-alpha 4][63] Triều đình chuyển tới Ứng Thiên Phủ vì tầm quan trọng lịch sử của nó đối với nhà sáng lập triều đại, Hoàng đế Tống Thái Tổ, người từng là tiết độ sứ ở đây. Ý nghĩa biểu tượng của thành phố đảm bảo cho tính hợp pháp chính trị của tân hoàng đế Tống Cao Tông, người đã lên ngôi vào ngày 12 tháng 6.[64]

Trị vì chưa đầy một tháng, Trương Bang Xương đã bị nhà Tống thuyết phục từ chức vua Đại Sở và công nhận Tống Cao Tông là hoàng đế danh chính.[61] Lý Cương gây áp lực buộc Cao Tông phải hành quyết Bang Xương vì tội phản quốc.[65] Hoàng đế mủi lòng nghe theo và ép Bang Xương tự tử.[58] Việc giết Trương Bang Xương cho thấy nhà Tống sẵn sàng khiêu khích nhà Kim, và nhà Kim thì vẫn chưa thể củng cố quyền kiểm soát của họ đối với những vùng lãnh thổ vừa chinh phục.[66] Việc Đại Sở chịu phục tùng và bị bãi bỏ đồng nghĩa với việc nhà Tống đã giành lại quyền kiểm soát Khai Phong. Tướng Tống chịu trách nhiệm củng cố Khai Phong là Tông Trạch (1059–1128), yêu cầu Cao Tông di dời triều đình về thành phố này, nhưng Cao Tông từ chối và chọn cách rút lui về phía nam.[67] Trong lịch sử Trung Quốc, cuộc di tản của Tống Cao Tông đánh dấu điểm kết thúc giai đoạn Bắc Tống, mở ra giai đoạn Nam Tống.[1]

Hậu duệ của Khổng Tử tại Khúc Phụ là Diễn Thánh công[lower-alpha 5] Khổng Đoan Hữu, theo chân Tống Cao Tông chạy về phía nam đến Cù Châu. Trong khi đó, em trai của Đoan Hữu là Khổng Đoan Thao, được tân triều nhà Kim (1115–1234) bổ nhiệm làm Diễn Thánh công khi ông vẫn tiếp tục ở lại Khúc Phụ.[68] Chắt của Trương Tái là Trương Tuyển, cũng theo Cao Tông di tản về phương nam.

Di tản về phương nam

Bắc Tống (hồng)
Nam Tống (tím) và Kim (vàng)
Nhà Tống trước và sau cuộc chinh phạt của người Nữ Chân

Việc nhà Tống giải tán Đại Sở và xử tử Trương Xương Bang đã gây bất bình cho người Nữ Chân đồng thời vi phạm hiệp ước giữa hai bên. Nhà Kim tiếp tục tấn công nhà Tống, nhanh chóng tái chiếm phần lớn miền bắc Trung Quốc.[65] Cuối năm 1127, Cao Tông di dời triều đình của mình xuôi xuống phía nam Ứng Thiên Phủ đến Dương Châu, phía nam sông Hoài và phía bắc sông Dương Tử, trên những con thuyền di chuyển dọc Đại Vận Hà.[69] Triều đình Tống có hơn một năm trú tại thành phố này.[70] Năm 1129, họ lại phải sơ tán một phần đến Hàng Châu khi người Nữ Chân tiến đến sông Hoài.[67] Vài ngày sau cuộc di tản, Cao Tông trốn thoát trong gang tấc trên lưng ngựa, chỉ vài giờ trước khi quân tiên phong Nữ Chân ập đến.[70] Tháng 5 năm 1129, sau khi suýt bị truất ngôi trong một cuộc đảo chính ở Hàng Châu, Cao Tông tiếp tục dời kinh đô trở lại phía bắc, đến Kiến Khang (Nam Kinh ngày nay), bờ nam sông Dương Tử.[71] Tuy nhiên, một tháng sau, người kế nhiệm Tông Trạch là Đỗ Sung, rút quân khỏi Khai Phong khiến Kiến Khang phải đối mặt với nguy cơ bị tấn công trực diện. Hoàng đế lại phải chuyển về Hàng Châu vào tháng 9, để lại Kiến Khang cho Đỗ Sung tiếp quản.[72] Đầu năm 1130, nhà Kim cuối cùng cũng chiếm được Khai Phong.[73]

Từ năm 1127 đến 1129, nhà Tống đã cử mười ba sứ đoàn đến nhà Kim để thảo luận về các điều khoản hòa bình cũng như đàm phán việc thả mẹ của Cao Tông và Huy Tông, nhưng đều bị triều đình nhà Kim phớt lờ.[74] Tháng 12 năm 1129, nhà Kim bắt đầu một cuộc tấn công quân sự mới, điều động hai đạo quân vượt sông Hoài ở cả hai phía đông và tây. Ở mặt trận phía tây, một cánh quân tiến hành xâm lược Giang Tây, nơi hoàng thái hậu nhà Tống đang cư trú, và chiếm được Hồng Châu (Nam Xương ngày nay).[72] Vài tháng sau, họ được lệnh rút lui cùng với cánh quân phía đông.[73]

Trong khi đó, Ngột Truật chỉ huy cánh quân Kim chủ lực ở mặt trận phía đông. Ông vượt qua sông Dương Tử về phía tây nam Kiến Khang rồi chiếm thành phố này sau khi buộc Đỗ Sung đầu hàng.[72] Từ Kiến Khang, Ngột Truật tức tốc đuổi theo Cao Tông.[75] Quân Kim giành được Hàng Châu vào ngày 22 tháng 1 năm 1130 và sau đó là Thiệu Hưng xa hơn về phía nam vào ngày 4 tháng 2 năm 1130. Trận chiến giữa Trương Tuấn (1086–1154) với Ngột Truật ở gần Ninh Ba đã cho Cao Tông thêm thời gian để chạy thoát.[76] Khi Ngột Truật tiếp tục truy đuổi, triều đình nhà Tống vừa kịp bỏ trốn trên các con tàu, tới các hòn đảo ngoài khơi Chiết Giang rồi đi xa hơn về phía nam đến Ôn Châu.[75] Người Nữ Chân dong buồm đuổi theo Cao Tông nhưng vẫn không bắt được ông. Họ đành phải bỏ cuộc và rút quân về phía bắc.[76] Sau khi cướp bóc các thành phố không còn sức phòng thủ là Hàng Châu và Tô Châu, cuối cùng người Nữ Chân cũng bắt đầu vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân Tống do Nhạc PhiHàn Thế Trung chỉ huy.[76] Hàn Thế Trung thậm chí còn khiến người Nữ Chân đại bại và đã cố gắng ngăn cản Ngột Truật quay trở lại bờ bắc sông Dương Tử. Hạm đội thủy quân của Hàn Thế Trung lấn lướt hoàn toàn những chiếc thuyền nhỏ của quân Kim. Tuy nhiên, Ngột Truật vẫn vượt được sông Dương Tử khi ra lệnh cho quân Kim bắn hỏa tiễn, đốt cháy những cánh buồm, vô hiệu hóa thuyền của người Hán. Nhánh quân của Ngột Truật quay lại bờ nam Dương Tử lần cuối, cướp phá tại Kiến Khang rồi quay trở về phương bắc. Nhà Kim đã mất cảnh giác trước sức mạnh thủy quân của nhà Tống, Ngột Truật không bao giờ cố gắng vượt sông Dương Tử thêm một lần nào nữa.[76] Đầu năm 1131, quân Kim ở giữa sông Hoài và sông Dương Tử lại bị đánh lui bởi một băng cướp trung thành với nhà Tống. Vì chiến công của mình, thủ lĩnh của băng cướp là Trương Vinh, được triều đình nhà Tống ban cho một chức quan.[73]

Sau khi quân Kim đột kích và suýt bắt được Tống Cao Tông, hoàng đế đã ra lệnh cho an phủ sứ[lower-alpha 6] phụ trách vùng Thiểm TâyTứ Xuyên ở phía tây xa xôi là Trương Tuấn (1097–1164), tấn công quân Kim tại địa bàn của ông để giảm bớt áp lực cho triều đình. Cuối năm 1130, dù tập trung được một lực lượng đông đảo nhưng Trương Tuấn vẫn bị Ngột Truật đánh bại ở gần Tây An. Ngột Truật tiến xa hơn tới Cam Túc, và tiếp tục xua quân xuống phía nam đến Giai Châu (Vũ Đô ngày nay).[77] Trong hai năm 1131 và 1132, những trận chiến quan trọng nhất giữa hai nước diễn ra ở Thiểm Tây, Cam Túc và Tứ Xuyên. Năm 1131, quân Kim thua hai trận tại Hòa Thượng Nguyên. Không vào được Tứ Xuyên, Ngột Truật rút quân về Yên Kinh. Ông quay trở lại mặt trận phía tây một lần nữa trong khoảng thời gian từ năm 1132 đến năm 1134. Năm 1132, quân Kim tấn công Hồ Bắc và Thiểm Tây. Năm 1133, Ngột Truật giành được Hòa Thượng Nguyên nhưng không thể tiếp tục tiến công vì thua trận tại ải Tiên Nhân. Ông đành từ bỏ tham vọng chiếm Tứ Xuyên, từ đây cũng không còn trận chiến lớn nào giữa quân Tống với quân Kim trong phần còn lại của thập kỷ.[77]

Năm 1133, triều đình nhà Tống quay trở lại Hàng Châu và đổi tên thành phố này thành Lâm An.[78] Đền thờ tổ tiên của hoàng tộc cũng được xây dựng ở Lâm An vào cuối năm đó, một dấu hiệu cho thấy triều đình đã ngầm công nhận Lâm An là kinh đô mới mà không cần tuyên cáo chính thức.[79] Lâm An vẫn chỉ được coi như một kinh đô tạm thời.[80] Trong khoảng thời gian từ năm 1130 đến năm 1137, triều đình nhà Tống thường xuyên di chuyển đến Kiến Khang rồi lại quay trở về Lâm An. Đã có những đề xuất về việc nên lấy Kiến Khang làm kinh đô nhưng rốt cuộc triều đình vẫn định đô tại Lâm An vì cho rằng thành phố này an toàn hơn.[81] Lâm An được bao quanh bởi các rào cản tự nhiên như là hồ nước và đồng lúa, khiến kỵ binh Nữ Chân khó lòng chọc thủng hệ thống công sự tại đây.[82] Việc nằm sát biển cũng giúp hoạt động tháo lui khỏi Lâm An trở nên dễ dàng hơn.[83] Năm 1138, Tống Cao Tống chính thức tuyên bố Lâm An là kinh đô của vương triều, nhưng vẫn giữ nguyên cái mác kinh đô tạm thời.[84] Lâm An tiếp tục là thủ phủ của Nam Tống trong suốt 150 năm tiếp theo, phát triển trở thành một trung tâm thương mại, văn hóa tầm cỡ.[85]

Đại Tề xâm lược Nam Tống

Một quan chức của triều đình nhà Tống tên là Tần Cối, đã đề xuất một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột năm 1130. Ông nói rằng, "Nếu muốn thiên hạ không còn chiến tranh, thì người nam cứ ở miền nam, người bắc cứ ở phương bắc."[86] Vốn tự xem mình là một người phương bắc, Tống Cao Tông ban đầu từ chối ý tưởng này. Giữa hai nước đã từng có một số hành động mang tính hòa giải. Năm 1132, nhà Kim trả tự do cho một sứ thần nhà Tống đang bị giam cầm. Năm 1133, nhà Tống từng đề nghị trở thành chư hầu của nhà Kim. Tuy nhiên, không có hiệp ước hòa bình nào được kí kết.[87] Yêu sách của nhà Kim về việc biên giới giữa hai nước phải được đẩy lùi về phía nam, từ sông Hoài thành sông Dương Tử, là một rào cản quá lớn khiến cả hai bên không thể đạt được thỏa thuận chung.[88]

Sự trỗi dậy liên tục của các lực lượng kháng Kim ở miền bắc Trung Quốc đã cản trở các chiến dịch của người Nữ Chân ở phía nam sông Dương Tử. Không muốn để tình trạng chiến loạn tiếp tục kéo dài, nhà Kim quyết định thành lập nhà nước Đại Tề, như một nỗ lực tái thiết một quốc gia bù nhìn mới ở miền bắc Trung Quốc.[59] Người Nữ Chân tin rằng Đại Tề trên danh nghĩa được cai trị bởi một người gốc Hán, sẽ có thể thu hút lòng trung thành từ các cá nhân bất mãn đang tham gia cuộc nổi dậy. Mặt khác, nhà Kim cũng đang lâm vào tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực lành nghề và việc kiểm soát toàn bộ miền bắc Trung Quốc cũng là không khả thi về mặt hành chính.[59] Những tháng cuối năm 1129, Lưu Dự (1073–1143) giành được sự sủng ái của Kim Thái Tông.[59] Ông là một cựu quan lại nhà Tống ở Hà Bắc, từng làm tri phủ ở Tế Nam trước khi đào tẩu sang nhà Kim vào năm 1128.[59] Khi nhà Đại Tề được thành lập vào cuối năm 1130, Lưu Dự được nhà Kim phong làm hoàng đế.[73] Đại Tề chọn Đại Danh làm thủ phủ, trước khi dời đô tới Khai Phong, cố đô Bắc Tống.[89] Chính phủ Đại Tề thiết lập chế độ quân dịch bắt buộc, nỗ lực cải cách bộ máy hành chính và ban hành luật thuế rất nặng.[45] Trong suốt bảy năm kể từ khi thành lập, Đại Tề lãnh trách nhiệm cung cấp một phần lớn lực lượng quân đội, chiến đấu chống lại nhà Tống.[74]

Bức họa thời Nam Tống mô tả "Trung hưng tứ tướng", những người ngăn chặn các cuộc chinh phạt của nhà Kim ở miền nam Trung Quốc. Từ trái sang phải: Nhạc Phi (1103–1142) đứng thứ hai, Trương Tuấn (1086–1154) đứng thứ tư, Hàn Thế Trung (1089–1151) đứng thứ năm và Lưu Quang Thế (1086–1142) đứng thứ bảy

Dù Đại Tề được trao cho nhiều quyền tự trị hơn chính phủ bù nhìn Đại Sở, nhưng Lưu Dự vẫn phải nghe theo mệnh lệnh của các tướng lĩnh Nữ Chân.[74] Với sự hỗ trợ của nhà Kim, Đại Tề xâm lược nhà Tống vào tháng 11 năm 1133. Lý Thành, một kẻ phản Tống theo Kim, là người dẫn đầu chiến dịch. Tương Dương và các châu lân cận lần lượt rơi vào tay Lý Thành. Việc chiếm được Tương Dương trên bờ sông Hán Thủy mở lối cho người Nữ Chân tiến vào lưu vực trung tâm sông Dương Tử.[88] Tuy nhiên, tướng Nhạc Phi đã chặn đứng hành trình nam chinh của họ.[45] Năm 1134, Nhạc Phi đánh bại Lý Thành và lấy lại Tương Dương cùng với các châu lân cận. Vào cuối năm đó, nhà Kim và Đại Tề lại bắt đầu một cuộc tấn công mới xa hơn về phía đông, dọc theo sông Hoài. Lần đầu tiên, Cao Tông ban bố một chiếu thư chính thức luận tội Đại Tề.[88] Quân Kim và quân Đại Tề có một loạt chiến thắng ở lưu vực sông Hoài, nhưng bị đánh lui bởi Hàn Thế Trung ở gần Dương Châu và bởi Nhạc Phi ở Lô Châu (Hợp Phì ngày nay).[90] Việc quân Kim rút lui đột ngột để ứng phó với cái chết của Kim Thái Tông vào năm 1135, đã cho nhà Tống thêm thời gian để tái tập hợp lực lượng.[90] Cuộc chiến lại tiếp diễn vào năm 1136 khi Đại Tề tấn công các đạo Hoài Nam của nhà Tống. Đại Tề thua một trận tại Ngẫu Đường, thuộc An Huy ngày nay, trước quân Tống do Dương Nghi Trung (1102–1166) lãnh đạo. Chiến thắng này đã góp phần khích lệ tinh thần quân Tống, an phủ sứ Trương Tuấn (1097–1164) thuyết phục Cao Tông bắt đầu một kế hoạch đáp trả. Ban đầu, Cao Tông đồng ý, nhưng đành phải từ bỏ chiến dịch phản công khi một sĩ quan tên là Ly Quỳnh, sát hại cấp trên rồi đào tẩu sang nhà Kim cùng hàng chục ngàn binh sĩ.[91] Trong khi đó, Kim Hi Tông (cai trị 1135–1150) trở thành người kế vị ngai vàng của Kim Thái Tông, và đang tìm cách thúc đẩy hòa bình giữa hai nước.[92] Kim Hi Tông cùng các tướng lĩnh của mình vô cùng thất vọng vì những thất bại quân sự của Lưu Dự và tin rằng Lưu Dự đang có một âm mưu bí mật với Nhạc Phi.[92] Cuối năm 1137, nhà Kim giáng tước vị của Lưu Dự xuống thành vương gia đồng thời bãi bỏ nhà Đại Tề.[45] Nhà Kim và nhà Tống tiến hành tái khởi động các cuộc đàm phán hòa bình.[92]

Nhà Tống phản công và tiến trình hòa bình

Bài chi tiết: Nhạc PhiTrận Yển Thành

Tống Cao Tông thăng chức cho Tần Cối vào năm 1138 và giao cho ông ta nhiệm vụ thương lượng với nhà Kim.[92] Trong triều, Nhạc Phi, Hàn Thế Trung cùng đông đảo quan chức, chỉ trích kịch liệt các đề nghị hòa bình.[93] Với quyền kiểm soát Đô sát viện, Tần Cối thanh trừng bớt kẻ thù của mình rồi tiếp tục tiến hành đàm phán. Năm 1138, nhà Kim và nhà Tống thiết lập một hiệp ước chọn sông Hoàng Hà làm giới tuyến đồng thời công nhận Tống Cao Tông là một "thần dân" nhà Kim. Nhưng vì vấp phải sự phản đối trong nội bộ triều đình cả hai bên, nên hiệp ước kể trên không bao giờ có hiệu lực.[94] Đầu năm 1140, Ngột Truật dẫn đầu một quân đoàn Nữ Chân xâm lược Nam Tống.[94] Cuộc phản công của người Hán sau đó đã mang về cho họ những lợi ích lớn lao trên phương diện lãnh thổ.[95] Tướng Tống là Lưu Kỹ đánh bại Ngột Truật tại Thuận Xương (ngày nay là Phụ Dương).[94] Nhạc Phi thì được giao trọng trách chỉ huy quân Tống bảo vệ Hoài Nam. Tuy nhiên, thay vì tiến đến Hoài Nam, Ngột Truật lại rút quân về Khai Phong. Bất chấp lệnh cấm tiến công của Cao Tông, Nhạc Phi tự mình dẫn quân tràn sang lãnh thổ nhà Kim. Ông chiếm được Trịnh Châu và cử binh lính băng qua Hoàng Hà để khuấy động tiếp một cuộc nổi dậy nông dân chống lại nhà Kim. Ngày 8 tháng 7 năm 1140, với 10 vạn bộ binh cùng 15.000 kỵ binh, Ngột Truật mở một cuộc tấn công bất ngờ vào Yển Thành. Nhạc Phi chỉ đạo kỵ binh phản công người Nữ Chân, giành được chiến thắng quyết định. Ông tiếp tục dẫn binh tới Hà Nam, chiếm lại Trịnh Châu và Lạc Dương. Thế nhưng, vào năm 1140, Nhạc Phi buộc phải rút quân theo lệnh hồi kinh của Tống Cao Tông.[96]

Bức tranh vẽ Nhạc Phi, một tướng lĩnh nhiều lần lãnh đạo quân Tống chống lại nhà Kim, đang giao chiến với quân Kim tại Chu Tiên Trấn trên tường ở Viên Minh Viên

Tống Cao Tông ủng hộ việc giàn xếp một hiệp ước hòa bình với người Nữ Chân và luôn muốn tìm cách kiềm chế tinh thần quyết chiến của quân Tống. Những chuyến viễn chinh của Nhạc Phi cũng như các tướng lĩnh khác là một trở ngại to lớn đối với các cuộc đàm phán hòa bình.[97] Triều đình đã làm suy yếu năng lực quốc phòng bằng cách ban cho Nhạc Phi, Hàn Thế Trung và Trương Tuấn (1086–1154) những chức vị khiến họ mất bớt quyền chỉ huy quân đội.[94] Hàn Thế Trung lên án hòa ước và chấp nhận nghỉ hưu.[98] Nhạc Phi cũng tuyên bố từ quan như một hành động phản đối.[97] Năm 1141, Tần Cối tống giam ông vì tội bất trung. Đầu năm 1142, với tội danh phản quốc, Nhạc Phi bị Tần Cối hạ độc giết chết khi đang còn ở trong tù. Nguyên nhân cái chết của Nhạc Phi có thể đến một phần từ áp lực ngoại giao bên phía nhà Kim trong cuộc hòa đàm, nhưng những cáo buộc về việc Tần Cối câu kết với nhà Kim thì chưa bao giờ được chứng minh.[99]

Sau khi bị hành quyết, danh tiếng của Nhạc Phi khi bảo vệ Nam Tống biến ông trở thành một anh hùng dân tộc.[100] Tần Cối thì bị các sử gia đời sau gièm pha, buộc tội bán nước.[101] Nhạc Phi ngoài đời thật khác với những thần thoại dân gian sau này dựa trên các chiến tích của ông.[102] Không giống như các giai thoại cổ xưa, Nhạc Phi cũng chỉ là một trong nhiều vị tướng đã chiến đấu chống lại nhà Kim ở miền bắc Trung Quốc.[103] Các nguồn truyền thống thường đổ lỗi cho Cao Tông vì quyết định xử tử Nhạc Phi và quy phục nhà Kim.[104] Khi đáp lại lòng biết ơn của Cao Tông vì cuộc hòa đàm thành công, Tần Cối đã nói với hoàng đế rằng "toàn bộ nỗ lực hòa bình này đều là của bệ hạ. Nô tài chỉ thực hiện theo thôi chứ chẳng có công lao gì đáng kể cả."[105]

Hiệp ước Thiệu Hưng

Tống Cao Tông ủng hộ đàm phán một hiệp ước hòa bình với người Nữ Chân. Hiệp ước Thiệu Hưng được phê chuẩn vào ngày 11 tháng 10 năm 1142

Ngày 11 tháng 10 năm 1142, sau khoảng một năm đàm phán, Hiệp ước Thiệu Hưng được phê chuẩn, chấm dứt cuộc xung đột giữa nhà Kim và nhà Tống.[106] Theo các điều khoản của hiệp ước, sông Hoài, phía bắc sông Dương Tử, được chỉ định là ranh giới giữa hai quốc gia. Ngoài ra, nhà Tống cũng đồng ý cống nạp thường niên 25 vạn lượng bạc và 25 vạn tấm lụa cho nhà Kim.[107]

Hiệp ước Thiệu Hưng còn hạ thấp địa vị Nam Tống, biến nước này trở thành một chư hầu của nhà Kim. Nhà Tống được chỉ định là "hạ triều" trong khi nhà Kim là "thượng triều". Bản nguyên văn của hiệp ước Thiệu Hưng không còn tồn tại trong các ghi chép ở Trung Quốc, một dấu hiệu rõ ràng minh chứng cho nỗi ô nhục mà nó từng mang lại cho triều đình nhà Tống. Nội dung khái quát được khôi phục từ tiểu sử của một người Nữ Chân. Sau khi hoạt động kí kết xong xuôi, người Nữ Chân rút lui về phương bắc và hoạt động giao thương giữa hai đế quốc lại tiếp tục được diễn ra.[108] Nền hòa bình được đảm bảo bởi hiệp ước Thiệu Hưng kéo dài trong 70 năm tiếp theo, nhưng đã bị gián đoạn hai lần. Lần đầu đến từ một chiến dịch quân sự của nhà Kim, lần tiếp theo xuất phát từ một chiến dịch khác của nhà Tống.[109]

Các chiến dịch khác

Cuộc chiến của Hoàn Nhan Lượng

Năm 1150, Hoàn Nhan Lượng lãnh đạo một cuộc đảo chính lật đổ Kim Hi Tông, trở thành hoàng đế thứ tư của nhà Kim.[110] Ông tự xưng là hoàng đế Trung Hoa, lên kế hoạch chinh phục nhà Tống để thống nhất toàn cõi Trung Quốc. Năm 1158, Hoàn Nhan Lượng viện lí do nhà Tống đã phá vỡ hiệp ước hòa bình năm 1142 khi lén mua ngựa để làm cái cớ gây chiến.[111] Ông ban hành một chế độ quân dịch không hợp lòng dân, gây nên tình trạng bất ổn lan rộng khắp đế quốc. Các cuộc khởi nghĩa kháng Kim nổ ra trong cộng đồng người Khiết Đan và ở các tỉnh giáp biên giới nhà Tống. Hoàn Nhan Lượng không chấp nhận bất cứ sự bất đồng chính kiến nào, mọi hành vi phản chiến đều bị trừng phạt nghiêm khắc.[112] Nhà Tống đã được cảnh báo trước về kế hoạch của Hoàn Nhan Lượng. Họ chuẩn bị đối phó bằng cách tăng cường phòng thủ dọc biên giới, chủ yếu gần sông Dương Tử, nhưng lại bị cản trở bởi sự thiếu quyết đoán của Tống Cao Tông.[113] Khao khát hòa bình của Cao Tông khiến ông không muốn khiêu khích nhà Kim.[114] Năm 1161, Hoàn Nhan Lượng bắt đầu chiến dịch xâm lược của mình mà không cần tuyên chiến chính thức.[115] Đạo quân Nữ Chân do Hoàn Nhan Lượng đích thân chỉ huy, rời Khai Phong vào ngày 15 tháng 10, đến biên giới sông Hoài vào ngày 28 tháng 10, và hành quân theo hướng sông Dương Tử. Nhà Tống để mất sông Hoài vào tay người Nữ Chân, nhưng vẫn chiếm lại được vài châu quận của nhà Kim ở phía tây, làm chậm bước tiến của họ.[115] Hoàn Nhan Lượng cử một nhóm tướng lĩnh Nữ Chân vượt sông Dương Tử đoạn gần thành phố Thái Thạch (phía nam Mã An Sơn, An Huy ngày nay) trong khi tự mình thiết lập một căn cứ gần Dương Châu.[116]

Chiến hạm của nhà Tống được trang bị máy phóng đối trọng ở boong trên cùng, lấy từ sách Vũ kinh tổng yếu

Viên quan Ngu Doãn Văn là người chỉ huy quân Tống trấn thủ dòng sông.[117] Trong trận Thái Thạch, người Nữ Chân đã bị đánh bại khi tấn công Thái Thạch trong hai ngày 26 và 27 tháng 11 năm 1161.[116] Các tàu chiến mái guồng của quân Tống, được trang bị máy phóng đối trọng[lower-alpha 7] bắn bom thuốc súng, áp đảo các tàu hạng nhẹ của hạm đội Kim.[118] Tàu chiến của người Nữ Chân hoàn toàn không có khả năng đối kháng vì chúng nhỏ hơn và được làm một cách cẩu thả.[117] Những quả bom mà quân Tống phóng ra, chứa hỗn hợp thuốc súng, vôi, sắt vụn và một loại chất độc có thể là asen.[119] Những tường thuật truyền thống của người Trung Quốc coi trận Thái Thạch là bước ngoặt của cả cuộc chiến, mô tả nó như một trận đánh lật ngược thế cờ, bảo vệ miền nam Trung Quốc khỏi những kẻ xâm lược phương bắc. Tầm quan trọng của trận Thái Thạch được cho là sánh ngang với trận Phì Thủy diễn ra vào thế kỷ thứ 4. Sử liệu đời Tống cho rằng Ngu Doãn Văn, người được giao nhiệm vụ bảo vệ Thái Thạch, đã chỉ huy 18.000 binh sĩ nhà Tống đánh bại lực lượng người Nữ Chân với quân số lên tới 40 vạn. Các nhà sử học hiện đại thì lại nghi ngờ những con số kể trên, coi những số liệu về người Nữ Chân là phóng đại. Sử gia đời Tống có thể đã nhầm lẫn giữa số lượng binh lính Nữ Chân trong trận Thái Thạch với tổng số binh lính dưới quyền chỉ huy của Hoàn Nhan Lượng. Trận chiến cũng không có thế trận một chiều như các tường thuật truyền thống, và nhà Tống rõ ràng có nhiều lợi thế hơn nhà Kim. Hạm đội Tống lớn hơn hạm đội Kim còn người Nữ Chân thì không thể đem sở trường kỵ binh của họ vào trong một trận thủy chiến.[116]

Một phân tích chiến trường hiện đại đã chỉ ra rằng mặc dù có tác dụng khích lệ tinh thần vua tôi nhà Tống, trận Thái Thạch chỉ là một trận đánh nhỏ. Nhà Kim thua cuộc nhưng chỉ chịu khoảng 4.000 thương vong và trận chiến cũng không phải là đòn chí tử giáng vào nỗ lực chiến tranh của họ.[116] Chính mối quan hệ không mấy tốt đẹp giữa Hoàn Nhan Lượng với các tướng lĩnh Nữ Chân, những người vẫn luôn coi thường ông ta, đã làm mất đi cơ hội giành chiến thắng của nhà Kim. Ngày 15 tháng 12, Hoàn Nhan Lượng bị ám sát ngay trong trại của mình bởi các tướng lĩnh bất mãn. Kim Thế Tông (cai trị 1161–1189) trở thành hoàng đế kế vị nhà Kim. Ông đứng trước áp lực phải kết thúc cuộc chiến tranh phi lợi ích với nhà Tống, và rồi phải ra lệnh rút quân vào năm 1162.[120] Cùng năm đó, Tống Cao Tông cũng từ giã ngai vàng. Những phương án xử lý sai lầm của Cao Tông trong cuộc chiến với Hoàn Nhan Lượng là một trong nhiều lý do khiến ông buộc phải thoái vị.[121] Các cuộc giao tranh giữa hai nước Nam Tống và Kim vẫn tiếp tục xảy ra dọc biên giới, nhưng lắng xuống vào năm 1165 sau một hiệp ước hòa bình. Không có thay đổi lớn về mặt lãnh thổ. Hiệp ước mới này quy định rằng nhà Tống vẫn phải trả tiền bồi thường hàng năm cho nhà Kim, nhưng khoản bồi thường này không gọi là "cống nạp" (mang nghĩa quan hệ trên dưới) mà được gọi là "thanh toán".[122]

Nam Tống phục thù

Bài chi tiết: Khai Hi bắc phạt
Một chiến binh Nữ Chân với cây cung bên mình, trên một bản in khắc gỗ đầu thế kỷ 17

Sức ép gia tăng từ quân Mông Cổ ở phía bắc, một loạt trận lụt mà đỉnh điểm là trận lụt sông Hoàng Hà năm 1194, tàn phá Hà Bắc và Sơn Đông, nạn hạn hán và châu chấu hoành hành ở phía nam gần sông Hoài, là những nguyên nhân khiến nhà Kim đang ngày càng suy yếu.[123] Thông qua các sứ thần tới thăm nhà Kim mỗi hai năm một lần, nhà Tống nắm được hoàn cảnh khó khăn của người Nữ Chân, và bắt đầu khiêu khích nước láng giềng phương bắc của họ. Tể tướng Nam Tống Hàn Thác Trụ là người đứng sau các hoạt động thù địch.[124] Tống Ninh Tông (cai trị 1194–1224) thì lại không quan tâm nhiều tới chiến tranh.[125] Nhà Tống chuẩn bị cho cuộc bắc phạt một cách từ tốn và thận trọng, dưới sự giám sát của Hàn Thác Trụ.[126] Triều đình Tống tỏ lòng tôn kính với vị anh hùng phục quốc Nhạc Phi và người Hán bắt đầu chế tác, xuất bản các sử liệu biện minh cho cuộc chinh phạt nhà Kim sắp tới.[126] Từ năm 1204 trở đi, các nhóm vũ trang người Hán tiến hành đột kích các khu định cư của người Nữ Chân.[124] Năm 1205, Hàn Thác Trụ được bổ nhiệm làm người nắm giữ toàn bộ an ninh quốc gia. Nhà Tống cũng tài trợ cho các cuộc nổi dậy của các nhóm phiến quân trung thành ở phía bắc.[126] Những cuộc đụng độ khởi đầu tiếp tục leo thang, một phần nhờ được tiếp tay bởi các quan chức Tống theo chủ nghĩa phục hưng lãnh thổ. Ngày 14 tháng 6 năm 1206, nhà Nam Tống chính thức tuyên bố tình trạng chiến tranh với nhà Kim.[124] Tuyên chiến thư cho rằng nhà Kim đã mất đi Thiên mệnh, không còn thích hợp để cai trị, và kêu gọi người Hán đứng lên lật đổ người Nữ Chân.[127]

Quân Tống do Tất Tái Ngộ (mất 1217) chỉ huy đã chiếm được thành phố biên giới Tứ Châu (bờ bắc sông Hoài, đối diện với Hu Dị ngày nay) nhưng chịu tổn thất lớn trước quân Kim ở Hà Bắc.[128] Quân Kim đẩy lui quân Tống và tiến quân theo hướng nam, bao vây thị trấn Sở Châu của nhà Tống, nằm trên Đại Vận Hà, ngay phía nam sông Hoài. Tất Tái Ngộ bảo vệ Sở Châu, buộc quân Kim phải thu lại vòng vây sau ba tháng.[129] Tuy nhiên, đến mùa thu năm 1206, người Nữ Chân đã chiếm được nhiều thị trấn và căn cứ quân sự khác.[130] Họ bắt đầu triển khai tấn công các châu quận của nhà Tống nằm ở mặt trận trung tâm, giành được Tảo Dương và Quang Hóa (trên bờ sông Hán Thủy gần Lão Hà Khẩu ngày nay).[131] Mùa thu năm 1206, chiến dịch tấn công của quân Tống thất bại thảm hại.[132] Tinh thần binh sĩ đi xuống khi điều kiện thời tiết xấu đi, nguồn cung cạn kiệt và nạn đói lan tràn, buộc nhiều người phải đào ngũ. Những cuộc đào tẩu ồ ạt của người Hán ở miền bắc Trung Quốc mà nhà Tống từng mong đợi đã không thể trở thành hiện thực.[130]

Ngược lại, một vụ phản bội đáng chú ý đã xảy ra bên phía nhà Tống: Ngô Hy (mất 1207), tuyên phủ sứ[lower-alpha 8] Tứ Xuyên, đào tẩu sang nhà Kim vào tháng 12 năm 1206.[130] Nhà Tống từng phải phụ thuộc vào thắng lợi của Ngô Hy ở phía tây để phân tán bớt binh lính Kim khỏi mặt trận phía đông.[133] Năm 1206, Ngô Hy tấn công các cứ điểm của quân Kim, nhưng binh đoàn 5 vạn lính của ông sau đó đã bị đẩy lùi.[134] Hành động đào tẩu của Ngô Hy có thể đồng nghĩa với việc nhà Tống mất toàn bộ mặt trận phía tây cuộc chiến, nhưng các trung thần đã kịp giết Ngô Hy vào ngày 29 tháng 3 năm 1207, trước khi quân Kim kiểm soát được vùng lãnh thổ vừa đầu hàng.[135] An Bính (mất 1221) trở thành người kế nhiệm Ngô Hy, nhưng các lực lượng quân Tống ở phía tây đã mất đi sự gắn kết sau khi Ngô Hy chết. Các tướng lĩnh chỉ huy lập tức trở mặt với nhau trong một cuộc đấu đá nội bộ diễn ra ngay sau đó.[136]

Năm 1207, trình trạng giao tranh vẫn tiếp diễn nhưng tình hình cuộc chiến thì dần đi vào bế tắc vào cuối năm. Nhà Tống lúc này lại đang ở thế phòng thủ, trong khi nhà Kim không thu được nhiều lợi ích từ các vùng lãnh thổ của nhà Tống.[132] Hàn Thác Trụ đã mất mạng vì thất bại trong những chính sách hiếu chiến của mình. Ngày 15 tháng 12 năm 1207, Hàn Thác Trụ bị cấm quân đánh cho đến chết. Đồng phạm của Hàn Thác Trụ là Tô Sư Đán cũng bị xử tử, các quan chức có liên hệ với ông thì bị cách chức hoặc lưu đày.[137] Vì cả hai bên Tống, Kim đều không muốn tiếp tục cuộc chiến, họ cùng nhau quay lại bàn đàm phán. Ngày 2 tháng 11 năm 1208, một hiệp ước hòa bình mới được kí kết, hoạt động triều cống của nhà Tống với nhà Kim lại được khôi phục. Lần này, phí bồi thường tăng thêm 5 vạn lượng bạc và 5 vạn tấm vải.[138] Hiệp ước cũng yêu cầu nhà Tống phải trình diện thủ cấp của Hàn Thác Trụ trước nhà Kim, kẻ mà người Nữ Chân cho là đã khơi mào cuộc chiến.[138] Thi thể của Hàn Thác Trụ và Tô Sư Đán bị khai quật, chặt đầu, đem bêu thị chúng rồi mới được gửi cho nhà Kim.[139]

Chiến tranh Kim–Tống giữa sự trỗi dậy của Mông Cổ

Trận chiến giữa quân Kim và quân Mông Cổ năm 1211, lấy từ Jami' al-tawarikh

Người Mông Cổ là một liên minh du mục đã được thống nhất vào giữa thế kỷ mười hai. Họ và những nhóm du mục thảo nguyên khác thỉnh thoảng đột kích nhà Kim từ phía tây bắc. Tương tự như truyền thống của nhà Tống, nhà Kim né tránh thực hiện các chiến dịch trừng phạt và hài lòng với chiến lược xoa dịu các nước láng giềng.[109] Năm 1210, người Mông Cổ, trước đây phải triều cống cho nhà Kim, đã chấm dứt mối quan hệ chư hầu với người Nữ Chân. Năm 1211, Mông Cổ tấn công nhà Kim.[140] Trước sự kiện này, đã có những tranh luận trong triều đình nhà Tống về việc có nên ngừng cống nạp cho một triều đình nhà Kim đang suy yếu, nhưng rồi họ vẫn chọn phương án tránh gây hấn với người Nữ Chân.[141] Năm 1214, nhà Tống từ chối tham gia liên minh chống Kim với Tây Hạ và vẫn tiếp tục theo lệ cũ dù bị người Nữ Chân khước từ yêu cầu giảm mức bồi thường hàng năm.[142] Trong khi đó, năm 1214, người Nữ Chân bị bao vây ở Trung Đô, phải rút lui tới Khai Phong, và chọn nơi này làm kinh đô mới của vương triều.[143] Khi người Mông Cổ bành trướng, nhà Kim bị tổn thất lãnh thổ và quyết định tấn công nhà Tống vào năm 1217 để bù đắp phần đất đai vừa bị thu hẹp của họ.[144] Lý do chính thức được nhà Kim đưa ra cho cuộc chiến lần này là vì các cuộc đột kích định kì của quân Tống. Một động cơ khả dĩ khác là người Nữ Chân muốn chinh phục nhà Tống để tìm một chỗ nương thân nếu chẳng may Mông Cổ kiểm soát thành công miền bắc Trung Quốc.[145] Sử Di Viễn (1164–1233), tể tướng dưới quyền Hoàng đế Tống Lý Tông (cai trị 1224–1264), do dự khi quyết định chạm trán với nhà Kim và trì hoãn tuyên chiến trong vòng hai tháng. Các tướng lĩnh Tống phần lớn được nắm quyền tự quyết, cho phép Sử Di Viễn né tránh trách nhiệm mỗi khi họ mắc phải sai lầm quân sự.[145] Quân Kim vượt biên từ các mặt phía tây và trung tâm.[145] Người Nữ Chân chỉ giành được thành công quân sự hạn chế, và còn phải đối mặt với các cuộc tấn công liên tục từ nước láng giềng Tây Hạ.[144] Năm 1217, hai tướng Nam Tống là Mạnh Tông Chánh và Hỗ Tái Hưng đánh bại quân Kim, ngăn không cho họ chiếm Tảo Dương và Tùy Châu.[146]

Chiến dịch thứ hai của quân Kim vào cuối năm 1217 khả quan hơn một chút so với chiến dịch đầu tiên.[147] Ở mạn phía đông, quân Kim không thể tiến sâu tại lưu vực sông Hoài. Tuy nhiên, ở mạn phía tây, họ đã lấy được Tây Hòa Châu cùng với Đại Tán Quan (Thiểm Tây ngày nay) vào cuối năm 1217.[148] Quân Kim cố gắng chiếm Tùy Châu ở lộ Tây Nam Kinh thêm một lần nữa vào các năm 1218 và 1219, nhưng vẫn không thành công.[149] Đầu năm 1218, quân Tống giành được Tứ Châu trong một đợt phản công. Năm 1219, Triệu Phương (mất 1221) chỉ huy quân Tống cướp phá Đặng ChâuĐường Châu hai lần.[150] Ở phía tây, quyền chỉ huy quân Tống ở Tứ Xuyên được trao cho An Bính, người trước đó đã bị bãi miễn chức vụ này. An Bính bảo vệ thành công mặt trận phía tây, nhưng không thể tiến xa hơn vì các cuộc khởi nghĩa địa phương trong khu vực.[151] Nhà Kim vẫn cố gắng đòi cống nạp từ nhà Tống, nhưng không bao giờ nhận được.[144] Đầu năm 1221, trong chiến dịch thứ ba và cũng là chiến dịch cuối cùng, quân Kim chiếm được thành phố Kỳ Châu (ở Tây Hoài Nam) nằm sâu trong lãnh thổ Nam Tống. Hỗ Tái Hưng và Lý Toàn (mất 1231) chỉ huy quân Tống đánh bại quân Kim, khiến họ phải lui binh.[152] Năm 1224, hai nước thống nhất về một hiệp ước hòa bình, chấm dứt hoạt động triều cống hàng năm của nhà Tống với nhà Kim. Các chuyến công du ngoại giao giữa hai quốc gia cũng chính thức bị hủy bỏ.[153]

Nam Tống liên minh Mông Cổ chống Kim

Mông Cổ–Nam Tống xâm lược nhà Kim

Tháng 2 năm 1233, quân Mông Cổ chiếm được Khai Phong sau một cuộc bao vây hơn 10 tháng, buộc triều đình nhà Kim phải rút về thị trấn Thái Châu.[154] Năm 1233, Kim Ai Tông (cai trị 1224–1234) phái sứ thần đi cầu xin tiếp tế từ nhà Tống. Người Nữ Chân cảnh báo người Hán rằng quân Mông Cổ sẽ xâm lược nhà Tống sau khi họ tiêu diệt nhà Kim – điều mà sau này đã trở thành hiện thực—thế nhưng nhà Tống phớt lờ lời cảnh báo và từ chối đáp lại thỉnh cầu.[155] Thay vào đó, họ lập một liên minh với người Mông Cổ để chống lại nhà Kim.[154] Nhà Tống đồng ý tiếp tế cho quân Mông Cổ để đổi lấy các phần lãnh thổ Hà Nam.[154] Năm 1234, vương triều nhà Kim sụp đổ sau khi liên quân Mông Cổ–Nam Tống chiến thắng người Nữ Chân trong trận vây hãm Thái Châu.[156] Mạnh Củng là người thống lĩnh quân Tống công hạ Thái Châu.[154] Hoàng đế áp chót của nhà Kim, Kim Ai Tông, đã tự kết liễu đời mình.[157] Người kế vị ngắn ngủi của ông, Kim Mạt Đế, bị giết vài ngày sau tại Thái Châu, ngay trong ngày lên ngôi.[155] Sau khi nhà Kim diệt vong, người Mông Cổ bắt đầu hướng mũi dùi của họ về phía Nam Tống. Qua nhiều thập kỷ giao tranh, triều đại nhà Tống cuối cùng cũng sụp đổ vào năm 1279, khi những trung thần còn lại của vương triều bị người Mông Cổ đánh bại trong một trận thủy chiến gần Quảng Đông.[158]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến tranh Kim – Tống http://xh.5156edu.com/html5/53525.html //doi.org/10.1017%2FS0041977X02000320 //doi.org/10.2307%2F2646446 //www.jstor.org/stable/2646446 http://www.npm.gov.tw/hotnews/9910seminar/download... https://books.google.com/books?id=3SmKDwAAQBAJ&q=s... https://books.google.com/books?id=6D4attcqvOQC&q=5... https://books.google.com/books?id=6XfRAgAAQBAJ&pg=... https://books.google.com/books?id=IdYGiGan4o8C&pg=... https://books.google.com/books?id=YQMUNgAACAAJ